Bạn đang xem bài viết Rau Diếp: Vị Thuốc Đặc Biệt Đến Từ Loài Cây Thân Thuộc được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Xcil.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Rau diếp, còn được gọi là rau xà lách, Oa cự,…. Có tên khoa học Lactuca sativa L. var. longifolia Lamk., thuộc họ Cúc (Asteraceace).
Mô tả thực vậtĐây là loại thực vật thân thảo. Đời sống khá ngắn, chỉ kéo dài khoảng 1 – 2 năm. Thân của cây là hình trụ thẳng, thân thô, chất thịt dày, cao khoảng 25 – 60cm. Phiến lá hình trứng tròn ngược, dài 10 – 25cm. Lá mọc ra ngay từ gốc thân, càng lên trên càng nhỏ lại. Lá ở gốc có cuống, còn ở thân không có. Lá màu xanh thẫm, mềm nhẵn. Cụm hoa gồm nhiều đầu hoa hợp lại thành chùy kép, mỗi đầu có 10 – 24 hoa dạng lưỡi nhỏ màu vàng. Quả bế hình trái xoan dẹp, màu nâu, có mào lông trắng.
Phân bốRau diếp có nguồn gốc từ châu Âu. Nó được nhập vào trồng ở các tỉnh của nước ta vào cuối thế kỉ 19. Các tỉnh ở miền Bắc với mùa đông khí hậu lạnh thích hợp trồng loại cây này hơn. Nó có thể được trồng xen với các loại rau ăn khác như Bắp cải, Su hào. Ở các tỉnh miền núi cao như Lai Châu, Hà Giang, Lạng Sơn, Lâm Đồng,… loại cây này có thể trồng quanh năm.
Bộ phận dùngĐể làm rau ăn hay làm thuốc, người ta sử dụng toàn bộ phần cây trên mặt đất, bỏ rễ. Đa phần cây được dùng dưới dạng tươi. Do rau đa phần được dùng sống, do đó khi thu hái về cần rửa thật sạch để loại trừ đất cát, các loại sán…
Thành phần hóa học có trong dược liệuTrong 100g rau diếp, người ta nghiên cứu thấy có:
Năng lượng 14 k.cal,
Carbohydrate 2,9g
Protein 1,4g
Chất xơ 1,3g
Lipid 0,2g
Ngoài ra còn có các chất Natri, Kali, Canxi, Magie, Sắt và các vitamin A, K, B6, …
Tác dụng của vị thuốc rau diếp theo Y học hiện đạiNgười ta thấy rằng, ăn rau diếp có một số lợi ích sau:
Tốt cho thị lực và làm đẹp da, nhờ vào hàm lượng vitamin A cao trong rau này
Cung cấp vitamin K làm tăng mật độ xương và bảo vệ nơ – ron thần kinh khỏi bị tổn thương
Tốt cho bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt
Tốt cho võng mạc
Cung cấp chất xơ
Phòng tránh một số bệnh như: loãng xương, thiếu máu, ung thư, Alzheimer, thoái hóa võng mạc,…
Tác dụng theo Y học cổ truyềnTrong Đông y, vị thuốc rau diếp, còn có tên Oa cự, nó có vị đắng, tính lạnh. Nó giúp:
Bổ gân cốt
Thông kinh mạch
Làm sáng mắt
Giúp an thần
Nhuận tràng
Chữa táo bón xuất huyết
Chữa tắc tia sữa
Trị tiểu tiện không thông, tiểu ra máu
Liều dùng một ngày từ 50 – 100gr. Có thể dùng dưới dạng ăn sống hoặc thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các dạng thuốc khác
Bài thuốc chữa tiểu tiện không thông, tiểu ra máuLấy ngọn rau Diếp giã nát, nặn thành bánh rồi đắp lên rốn.
Bài thuốc chữa tắc tia sữaLấy 100g rau Diếp đem sắc lên, rồi thêm vào 1 chén rượu uống.
Bài thuốc chữa trĩ, lở loét, đại tiện xuất huyếtRau diếp tươi rửa sạch 100g, Ngó sen tươi 70g, ép kiệt lấy nước, thêm Mật ong đủ ngọt, uống ngày 2 lần, dùng liên tục trong nhiều ngày. Kết hợp sắc nước, ngâm rửa chỗ bị bệnh.
Những đối tượng sau không nên ăn rau diếp
Người đang sử dụng thuốc làm đông máu có hàm lượng vitamin K cao, nếu dùng nhiều rau Diếp có thể dẫn tới tình trạng bị huyết khối
Phụ nữ có thai và mới sanh cũng không nên dùng rau này ăn sống vì rau này nếu rửa không kĩ sẽ có hàm lượng lớn vi khuẩn, kí sinh trùng,… gây hại cho mẹ và bé
Những người bị đau dạ dày và viêm đại tràng cũng không nên dùng, do rau sống có thể kích thích niêm mạc dạ dày và niêm mạc đại tràng.
Rau Diếp là một loại thực phẩm hết sức phổ biến và cũng rất tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên để phát huy hết tác dụng của nó, cần dùng đúng người, đúng bệnh. Tránh tình trạng tự ý sử dụng bừa bãi có thể dẫn đến những tác dụng phụ không mong muốn.
Cây Bần: Vị Thuốc Trị Vết Thương Ngoài Hiệu Quả
1.1. Mô tả dược liệu
Bần là loài thực vật thân gỗ, chiều cao trung bình từ 4 – 5m hoặc hơn. Thân phân chia thành nhiều cành, cành non thường phân thành nhiều đốt phình to, màu đỏ. Không giống với các loại cây thân gỗ khác, chất gỗ của cây bần bở và xốp nên hầu như không được sử dụng để làm vật dụng sinh hoạt.
Rễ thở tập trung thành khóm ở quanh gốc thân, mọc ngập sâu vào bùn. Lá mọc đối xứng, phiến lá có hình trái xoan hoặc hình mũi mác, gốc thuôn, đầu tù, phiến dày và dai, rất giòn. Cuống lá và phần gân chính ở gốc có màu đỏ.
Hoa màu trắng, mọc đơn độc ở ngọn thân hoặc kẽ lá, cuống hoa ngắn và mập, mặt ngoài màu lục, mặt trong màu tím hồng.
Quả mọng, hình cầu, dẹt, có mũi thuôn nhọn ở đầu. Toàn cây nhẵn.
Mùa hoa: tháng 3 – 5; mùa quả: tháng 8 – 10.
1.2. Bộ phận dùngBộ phận dùng của cây Bần chủ yếu là quả, vỏ, thân và cành.
1.3. Phân bố, sinh tháiCây Bần chỉ sống được ở những rừng ngập mặn có khí hậu nhiệt đới. Loài thực vật này có nguồn gốc từ các nước Đông Nam Á và Nam Á nhưng hiện nay đã được di thực ở nhiều khu vực trên thế giới như Châu Đại Dương, Châu Phi và Châu Á.
Ở nước ta, Bần mọc nhiều ở các tỉnh ven biển từ Hải Phòng đến Cà Mau nhưng tập trung nhiều nhất ở khu vực Tây Nam Bộ. Để thích nghi với điều kiện đất bùn nhão và thường xuyên bị ngập nước, cây có hệ thống rễ thở mọc trồi lên khỏi mặt đất. Bần phát triển mạnh ở khu vực rừng ngập mặn, giúp tạo ra hàng rào vững chắc nhằm chắn sóng và bảo vệ vùng đất ngập nước ở ven biển.
1.4. Thành phần hóa họcCây Bần chứa thành phần hóa học, bao gồm:
Vỏ thân và cành chứa 10 – 20% tannin thuộc nhóm tannin pyrogallic.
Gỗ chứa 2 chất màu archin và archinin. Ngoài ra còn có một hợp chất phenol là archicin.
Quả bần chứa chất màu, archicin, archin, 11% pectin và 2 chất flavonoid.
Theo Đông y, lá Bần có vị chát, tính mát, quả có vị chua, tính mát, có tác dụng tiêu viêm và giảm đau, lá có tác dụng chữa bí tiểu tiện và cầm máu.
Theo các nghiên cứu, chiết xuất từ cây Bần có tác dụng chống oxy hóa, kháng khuẩn. Ngoài ra, thành phần trong cây còn ức chế enzyme acetylcholinesterase – là enzyme có tác dụng làm ngưng hoạt động của chất dẫn truyền thần kinh. Vì vậy vị thuốc này có tác dụng ngăn chặn phát triển bệnh Alzheimer.
Bần hiện chỉ mới được sử dụng theo kinh nghiệm dân gian là chủ yếu. Lá Bần giã nát với ít muối, đắp tại chỗ có tác dụng chữa vết thương bầm tím do đụng dập. Ngoài ra quả lúc còn xanh có vị chua, dùng tăng mùi vị cho bột cari, còn lúc chín có mùi vị giống bơ, có thể ăn tươi hoặc nấu chín. Dược liệu còn được sử dụng nhiều ở các nước, cụ thể:
Ở Ấn Độ: Quả Bần được dùng làm thuốc đắp ngoài chữa bong gân sưng tấy. Dịch ép lên men từ quả có tác dụng cầm máu. Ngoài ra, dịch ép từ hoa là một thành phần trong bài thuốc chữa tiểu máu.
Tại Malaysia, lá tươi của cây Bần được sử dụng để chữa bí tiểu tiện. Ngoài ra, nhân dân còn ăn quả chín để tiêu diệt ký sinh trùng sống trong sán, giun. Nước ép từ quả xanh dùng làm thuốc giảm ho.
Nhân dân Philipines sử dụng quả non và lá bần giã nhuyễn để giảm sưng, trị bong gân và cầm máu.
4.1. Bài thuốc chữa bí tiểu tiệnQuả và lá Bần. Giã nát rồi đắp vào vùng bụng dưới.
4.2. Bài thuốc trị viêm tấy và bong gânQuả non rửa sạch, giã nát và đắp lên vùng sưng tấy. Có thể dùng băng cố định và thay 1 lần/ ngày.
Chú ý: Quả Bần có vị chua nên tránh ăn khi bụng đói và cần thận trọng khi dùng cho bệnh nhân bị viêm loét dạ dày tá tràng.
Bần không chỉ là loài cây được trồng để giữ đất mà còn được nhân dân sử dụng như một vị thuốc chữa bệnh và chế biến món ăn. Tuy cây Bần là dược liệu chứa ít độc nhưng khi sử dụng cũng cần lưu ý về liều lượng để mang lại hiệu quả tốt nhất.
Bác sĩ Phạm Thị Linh
Những Loài Vật Đắt Đỏ, Giá Từ Vài Chục Triệu Đến Hàng Chục Tỷ Đồng
Những loài vật nhắc đến tên rất nhiều người biết, nhưng khi nói đến giá cả không ít người phải giật mình vì chúng đều là những loài vật đắt đỏ có giá từ vài chục triệu đến hàng chục tỷ đồng.
Chó ngao Tây Tạng có giá khoảng 29 tỷ đồng
Chó ngao Tây Tạng được dùng để săn bắt ở các bộ lạc cổ đại tại Trung Á
Chó ngao Tây Tạng được coi là hậu duệ của những con chó từng được dùng để săn bắt ở các bộ lạc cổ đại tại Trung Á.
Giống chó này có kích thước to lớn, dũng mãnh và rất trung thành. Năm 2011, một tỷ phú ở Trung Quốc đã mua một con chó ngao Tây Tạng với mức giá lên tới 945.000 bảng Anh (tương đương gần 29 tỷ VNĐ).
Cừu Deveronvale Perfection có giá khoảng 7 tỷ đồng
Cừu Deveronvale Perfection ở Scotland
Deveronvale Perfection là một con cừu ở Scotland, có thân hình mập mạp, rất tốt cho việc nhân giống. Trong một buổi đấu giá vào năm 2009, con cừu Deveronvale Perfection, khi đó chỉ mới 8 tháng tuổi, đã được bán với mức giá kỷ lục là 231.000 bảng Anh (khoảng 7 tỷ VNĐ). Deveronvale Perfection chính là chú cừu đắt giá nhất trên thế giới.
Hơn 1,4 triệu USD chim bồ câu Armando
Chim bồ câu Armando
Đây là một con chim bồ câu đua 5 tuổi gốc Bỉ, từng giành được rất nhiều giải thưởng danh giá tại các cuộc đua chim quốc tế. Chú chim Armando được gọi là “chim bồ câu đua đường trường cừ khôi nhất mọi thời đại” và được ví như “Lewis Hamilton trong làng đua chim”.
Các cuộc thi gần nhất mà “Tay đua” cừ khôi này giành giải quán quân là giải vô địch Ace Pigeon 2023, Pigeon Olympiad 2023 và giải Angouleme.
Hiện, Armando đã nghỉ hưu và trở thành cha của nhiều chim non.
Trong một cuộc bán đấu giá, một đại gia Trung Quốc giấu tên đã bỏ ra số tiền kỷ lục lên tới hơn 1,4 triệu USD (tương đương với hơn 32 tỷ VNĐ) để sở hữu Armando.
Trứng đà điểu Emu có giá từ 10-20 USD/quả
Trứng đà điểu Emu lớn nhất thế giới có giá từ 10-20 USD/quả
Châu Úc có một loài chim khổng lồ, chúng có thể cao hơn 2m và nặng đến 1 tạ, thường gọi là đà điểu Emu. Loài Emu có kích thước và cân nặng chỉ kém đà điểu châu Phi.
Chúng khá giống với đà điểu châu Phi nhưng hoàn toàn không có họ với loài chim chạy xứ nóng. Mỗi lần Emu đẻ 10-25 trứng. Trứng của loài đà điểu Emu thuộc hàng lớn nhất thế giới. Màu sắc vỏ trứng cũng rất đẹp, trứng có cả màu xanh và màu đen.
Gần đây, loại trứng đà điểu Emu đang là món ăn rất “hot”. Nó thường xuyên xuất hiện trong các thực đơn tại nhiều hàng sang trọng. Một quả trứng Emu tương đương với 8 – 10 quả trứng gà. Nó có rất nhiều protein và đủ cho cả gia đình. Nên ở Úc, nhiều người chọn trứng Emu làm thực phẩm sử dụng thường xuyên cho cả nhà. Giá trứng tại Úc dao động từ 10 – 20 USD/quả.
Thế nhưng, giá trứng không chỉ dừng lại ở 20 USD. Bởi nó còn phải chịu phí vận chuyển qua đường hàng không và mất thêm phí nhập khẩu.
Nếu đặt mua 1 quả, thì ngoài giá 20 USD, sẽ phải chịu thêm 29 USD vận chuyển và gần 20 USD tiền phí nhập khẩu. Tổng cộng lên tới 69 USD, tương đương gần 1,6 triệu đồng. Mua từ 3 quả thì phí vận chuyển chỉ khoảng 35 USD, mất thêm 36 USD phí nhập nữa thì tổng chi phí chỉ khoảng 3 triệu đồng.
Chim đỗ quyên 10 màu độc nhất Việt Nam có giá nửa tỷ đồng
Chim đỗ quyên sở hữu bộ lông 10 màu có giá nửa tỷ đồng
Chú chim đỗ quyên của đại gia Dương Văn Chương (Chương Tailor) được mệnh danh là “siêu phẩm” số 1 Việt Nam và số 1 Đông Nam Á. Ngoài giọng hot tuyệt với thì chú chim này còn sở hữu bộ lông tuyệt đỉnh với 10 màu khác nhau như: trắng, hồng, vàng, cam…
Đại gia Dương Văn Chương đã mua từ Singapore với giá 500 triệu đồng. Khi về Việt Nam, nhiều đại gia thấy chim quá đẹp liền ngỏ ý muốn mua nhưng ông quyết không bán. Bởi ông cho rằng, đây là dòng chim hút mật độc nhất vô nhị mà ông luôn săn tìm.
Do là dòng chim hút mật nên thức ăn của chúng chủ yếu là hoa quả như chuối, cam, thanh long… Cứ 7h sáng, chú chim được tắm nắng theo chế độ đặc biệt và bổ sung chất dinh dưỡng. Đều đặn cuối tuần, đỗ quyên sẽ được bác sĩ đến thăm khám định kỳ.
Chó Phú Quốc – loài “khuyển vương” có giá 300 triệu đồng
Loài “khuyển vương” này đã từng được giao dịch với giá gần nửa tỷ đồng
hó Phú Quốc được mệnh danh là “khuyển vương” bởi nó được sở hữu vẻ đẹp oai phong, vẻ đẹp của một chú chó đực đầu đàn, một thủ lĩnh kiên cường. Điều đặc biệt, tiếng gầm của chó Phú Quốc nghe rất giống tiếng gầm của một con vật săn mồi hoang dã. Người thường nếu nghe cũng sẽ sợ hãi, đây là sức mạnh răn đe, thể hiện uy quyền với những chú chó khác trong bầy.
Chó xoáy có dải lông mọc ngược trên lưng không hiếm gặp nhưng những chú chó chuẩn giống Phú Quốc với đặc trưng giống tốt, nguồn gene, gia phả quý, đẹp về ngoại hình, tốt về tính cách, lại được đánh giá cao bởi các giám khảo trong nước và quốc tế thì rất hiếm, rất lâu mới xuất hiện 1 cún như vậy, có khi phải mất nhiều năm.
300 triệu đồng là số tiền rất lớn và chưa từng có tiền lệ với một thương vụ chuyển nhượng chó Phú Quốc tại Việt Nam. Tuy nhiên, khi được chốt giá giao dịch chủ nhân của nó không hề đắn đo vì trước đó chủ nhân này đã từng xác định với chú chó này, chị chấp nhận chi số tiền trên dưới 20.000 USD (hơn 400 triệu đồng).
Loài động vật có 4 mắt, mỗi lít máu giá gần 20.000 USD
Sam 4 mắt sở hữu loại máu đắt đỏ nhất thế giới
Có giá lên tới gần 20.000 USD/lít, đây là loài động vật có máu đắt đỏ nhất trên thế giới hiện nay. Nuôi con vật này lấy máu là một trong những ngành công nghiệp ở nhiều quốc gia.
Loài vật này có tên khoa học của loài sam là Limalus Polypherlus, có 4 mắt. Trong đó, 2 mắt lồi ra ở bên thân, hai mắt còn lại ở trên đầu và nằm sát với nhau. Sam có 6 đôi chân, 4 đôi dùng để di chuyển, 2 đôi chân phía sau to khỏe hơn đẩy toàn bộ cơ thể khi bơi. Đôi chân phía sau ngắn hơn, kẹp, giữ con mồi đưa thức ăn vào miệng.
Theo “Sách đỏ IUCN”, loài sam đã xuất hiện trên trái đất từ khoảng 450 triệu năm trước. Đây là một trong những sinh vật cổ xưa nhất từng xuất hiện trên trái đất vẫn còn tồn tại, được các nhà khoa học gọi là “hóa thạch sống”. Dù đã xuất hiện từ thời tiền sử, hình hài của chúng, đến nay, không có sự thay đổi so với hàng trăm triệu năm trước.
Các nhà khoa học phát hiện máu của loài sam có tác dụng vô hiệu hóa vi khuẩn độc hại. Sam biển không có hệ miễn dịch nhưng có một cơ chế phòng vệ đặc biệt để chống vi khuẩn. Khi đối mặt vi khuẩn độc hại, tế bào amip trong máu sam phát hiện và làm tê liệt, không cho chúng lây lan.
Khác với nhiều loài động vật sống trên cạn, máu sam biển có màu xanh, do thành phần hóa học trong máu quy định. Người ta chỉ khai thác mỗi con sam khoảng 30% máu trong cơ thể. Sau khi lấy máu, sam được đưa lại về biển và một tuần sau lượng máu của chúng sẽ phục hồi.
Có giá lên tới gần 20.000 USD/lít, sam là loài động vật có máu đắt đỏ nhất trên thế giới hiện nay. Nuôi sam lấy máu là một trong những ngành công nghiệp ở nhiều quốc gia.
Rắn cảnh
Những loài rắn cảnh với màu sắc sặc sỡ đang được nhiều người sưu tầm về nuôi
Những con rắn có màu sắc sặc sỡ được nhập khẩu từ nước ngoài về có giá từ 1 triệu đến hàng chục triệu đồng trở thành “thú cưng” được các bạn trẻ chịu chơi tại Việt Nam hết sức quan tâm trong những năm gần đây như rắn ngô (corn snake), rắn chúa (king snake), rắn sữa (milk snake). Loài rắn sữa có màu sắc sặc sỡ với các sọc ngang màu trắng hoặc kem, viền đen trên nền thân màu đỏ hoặc đỏ nâu nên chúng rất được ưa chuộng nuôi làm cảnh ở nhiều nơi trên thế giới”.
PV (tổng hợp)
18 Sự Thật Thú Vị Nhất Về Loài Bướm
Bướm ăn gì để sống?
Bướm là loài côn trùng ẩn giấu nhiều điều thú vị trong vòng đời. Quá trình sinh trưởng và phát triển của loài bướm là một vòng tuần hoàn khép kín: Trứng – Ấu trùng – Sâu bướm – Nhộng (nhộng tạo kén) – Bướm. Các loài bướm ở giai đoạn trưởng thành có thể sống từ 1 tuần đến gần 1 năm. Chúng giao phối, đẻ trứng và lại bắt đầu một vòng đời mới.
Ấu trùng của bướm ăn vỏ trứng ngay sau khi nở, sâu bướm ăn lá cây để sống, nhộng thì không ăn gì, còn những con bướm thường dùng vòi dài hút mật hoa để sống.
Sự thật đơn giản vậy ai cũng biết, tuy nhiên thực tế thì nhiều loài bướm lại không chỉ hút mật hoa mà còn ăn cả xác chết, bùn hoặc chất thải động vật. Đôi khi mồ hôi của con người, nước mắt của rùa và cá sấu cũng là món ăn yêu thích của loài bướm. Chúng hút chất lỏng bên trong những thứ đó vì có chứa natri làm tăng khả năng sinh sản của loài bướm.
Vậy nên, nếu có con bướm nào đậu vào người bạn thì cũng đừng tưởng là mình thơm tho đến mức thu hút cả sự chú ý của loài bướm. Và cũng đừng ngạc nhiên khi nhìn thấy cả đàn bướm thi nhau xúm vào một xác chết của con vật nào đó hoặc thậm chí là một bãi phân.
Một con bướm không thể sống nhờ mật hoa mà nó cũng cần cả khoáng chất. Vậy nên những con bướm thường xuyên “nhâm nhi” ở các vũng nước bùn giàu khoáng chất và muối. Hành vi này, được gọi là “puddling”, đặc biệt là những con bướm đực. Cơ thể chúng tổng hợp các khoáng chất vào tinh trùng. Những chất dinh dưỡng này sau đó được chuyển giao cho bướm cái trong thời gian giao phối, và giúp khả năng tồn tại của trứng được lâu hơn.
Bướm cũng có nọc độcBướm ăn gì để sống?
Cũng như bao loài khác đang sinh sống trên Trái đất, những con bươm bướm cũng có góc tối trong cuộc đời, và chúng đã sống một cuộc sống che giấu mà con người hầu như không hề hay biết. Điều đầu tiên có thể kể đến là màu sắc của những con bươm bướm. Vẻ ngoài xinh đẹp thật ra có thể là một lời cảnh báo.
Lấy ví dụ là loài bướm vằn cánh dài Heliconius charithonia. Nhìn qua thì loài này cũng thật “hồn nhiên” như bao con bướm khác nhưng chúng là loài có độc nổi tiếng. Thậm chí, ở giai đoạn sâu bướm, chúng còn có thói quen “ăn thịt” anh em đẫn đến cảnh huynh đệ một nhà tương tàn.
Vì con cái bị mắc kẹt trong những vỏ nhộng và không có sự lựa chọn nào khác, nên thuật ngữ “hiếp dâm nhộng” xuất hiện. Một số nhà sinh vật học gọi với cái tên nhẹ nhàng hơn là “giao hợp cưỡng bức”.
Nếu xét về độ xảo trá, quỷ quyệt thì có lẽ họ hàng nhà bướm đều réo tên loài Maculinea rebeli. Những con sâu bướm Maculinea rebeli thậm chí còn lừa cả đàn kiến để được chúng cung phụng như một ông hoàng, bà chúa. Sâu bướm có thể tạo ra âm thanh bắt chước kiến chúa và khiến cả đàn bị lừa và hầu hạ nó. Những con kiến thợ cơm bưng nước rót cho chúng, kiến y tá thỉnh thoảng còn phải hy sinh những con kiến để cho chúng ăn khi thức ăn khan hiếm.
Bướm cũng có nọc độc
Những mối đe dọa của loài bướm trong tự nhiênBướm cũng có nọc độc
Dù sao, số phận của bướm cũng rất mong manh. Như vào mùa đông năm 2023, một trận bão lớn bất thường đã quét qua khu bảo tồn thiên nhiên El Rosario của Mexico, làm chết 40% cá thể bướm. Một trong những lí do khiến bướm chết hàng loạt như vậy là tán rừng ngày càng thưa thớt. Trên thực tế, tán rừng đóng 2 vai trò vô cùng quan trọng đối với sinh vật sống bên dưới.
Theo tạp chí Côn trùng học Hoa Kỳ, rừng vừa là “tấm chăn giữ nhiệt” vừa là “chiếc ô che mưa” giúp bươm bướm và các loài vật khác đỡ ướt lạnh.
Bướm là loài côn trùng nhỏ, chuyên hút phấn hoa, mật hoa, góp phần giúp việc giúp hoa thụ phấn. Ngược lại, hoa lá cây cỏ cũng là “mái vòm” bảo vệ loài bướm trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nhưng khi bàn tay của con người bắt đầu cải tạo tự nhiên nhiều hơn, mọi thứ đã thay đổi. Vẻ đẹp của loài bướm khiến chúng bị săn bắt, giữ lại xác cho vào các bộ sưu tập. Rừng tự nhiên bị tàn phá, làm thay đổi môi trường sống của các loài sinh vật.
Nhiều loài bướm khắp thế giới từ Nam Mỹ, Đông Nam Á, châu Úc đến châu Âu đang có nguy cơ tuyệt chủng. Một số loài được pháp luật bảo vệ, một số được nuôi trong trang trại, các biện pháp khác cũng đang được ban hành. Hy vọng rằng vẫn chưa quá muộn để cứu lấy loài côn trùng này.
Bướm là loài có thói quen ăn uống khủng khiếpNhững mối đe dọa của loài bướm trong tự nhiên
Sở hữu diện mạo xinh đẹp, đáng yêu nhưng bướm lại có sở thích ăn uống quái đản, khiến nhiều người buồn nôn. Mật hoa không thể cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho bướm nên chúng có nhiều thói quen ăn uống quái đản, chẳng hạn hạ cánh xuống đất và thưởng thức bùn – loại hỗn hợp cung cấp các axit amin, đạm, muối, và các protein mà chúng cần.
Mồ hôi, nước mắt của con người, rùa và cá sấu cũng là món ăn yêu thích của loài bướm bởi trong đó có chứa natri làm tăng lượng tinh trùng và tăng khả năng sinh sản. Bướm không đâm qua da như muỗi nên chúng không đi cắn người. Tuy nhiên, nếu có máu, bướm sẽ không ngần ngại uống thứ nước uống khủng khiếp này để bổ sung đầy đủ sắt và đường.
Ngoài ra, bướm còn yêu thích “món” nước tiểu tới mức chúng còn tự tiêu thụ nước tiểu của chính mình. Tuy rất khó tin nhưng chắc chắn chất thải là một trong những món ăn ưa chuộng của loài bướm xinh đẹp. Tương tự như bùn, phân cung cấp cho chúng các khoáng chất, các axit amin, và nitơ.
Không có răng nên bướm rất thích thưởng thức món thịt thối rữa đang trong quá trình hóa lỏng. Những món ăn khủng khiếp này của loài bướm rất có thể khiến bạn rùng mình ngay khi đang ngắm một con bướm lộng lẫy.
Bướm trưởng thành vừa nở không có vòi hútBướm là loài có thói quen ăn uống khủng khiếp
Không như sâu bướm phá hoại lá cây, bướm trưởng thành chỉ ăn chất lỏng, thường là mật hoa. Phần miệng được biến đổi để cho phép chúng uống mật hóa, nhưng không thể nhai. Với một cái vòi ở phần miệng, có chức năng như một ống hút nước, chúng duỗi thẳng ra khi hút mật hoa và cong lại không không sử dụng.
Một số loài bướm ăn cả nhựa cây, và một số thậm chí còn “chén” luôn cả thực vật đang phân hủy.
Bướm trưởng thành vừa nở không có vòi hút. Một con bướm không thể uống mật hoa chắc chắc sẽ bị chết. Bướm vừa trưởng thành không có vòi hút, lúc này miệng của nó được chia thành 2 phần.
Một trong những công việc đầu tiên của bướm mới nở là yêu cầu sự trợ giúp của đồng loại. Con bướm trưởng thành sẽ tiến đến bên nó và bắt đầu làm việc với 2 phần rời rạc này để tạo thành một ống đơn, có chức năng hút nước. Bạn có thể dễ dàng nhìn thấy những con bướm giúp đỡ nhau trong vườn.
Bướm trưởng thành vừa nở không có vòi hút
Top 7 loài bướm hiếm nhất thế giớiBướm trưởng thành vừa nở không có vòi hút
Những con bướm với hoa văn lạ mắt này từng có thời gian xuất hiện khá nhiều. Tuy nhiên, môi trường sống và những tác động từ con người đã khiến chúng dần biến mất.
Miami Blue: Trong quá khứ, loài này khá phổ biến ở dọc ven biển Florida (Mỹ). Tuy nhiên, ngày nay, số lượng của nó đã giảm đi đáng kể (ước tính còn ít hơn 100 cá thể). Đây chính là loài bướm hiếm nhất thế giới. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc bướm Miami Blue biến mất là việc phát triển vùng ven biển Miami và cơn bão Andrew năm 1992. Cho tới năm 1999, không ai nhìn thấy con bướm Miami nào và nó được cho là đã tuyệt chủng.
Island Marble: Loài bướm này có phần hoa văn cánh giống hệt đá cẩm thạch. Trong khoảng 100 năm (1908-1998), nó được cho là đã tuyệt chủng. Tuy nhiên, một số cá thể bướm Island Marble đã xuất hiện trở lại ở đảo San Juan (Tây Ban Nha). Các nhà khoa học và chính quyền đã đưa nó vào danh sách động vật có nguy cơ tuyệt chủng. Tuy nhiên, nỗ lực của họ cũng không thể khiến số lượng loài này ngừng giảm. Tới năm 2023, số cá thể bướm Island Marble chỉ còn khoảng dưới 200 con ở San Juan.
Palos Verdes Blue: Đây là một loài bướm nhỏ có nguy cơ tuyệt chủng cao. Palos Verdes Blue chỉ xuất hiện ở bán đảo Palos Verdes (Mỹ) nên hiếm người được tận mắt chiêm ngưỡng nó. Các nhà khoa học nghĩ loài này đã hoàn toàn biến mất vào năm 1983 khi khu vực sống của nó (thuộc công viên Rancho Palos Verdes) bị san bằng. Hiện tại, chỉ còn khoảng 200 cá thể Palos Verdes Blue trong tự nhiên.
Lange’s Metalmark: Giống Palos Verdes Blue, Lange’s Metalmark chỉ sống duy nhất trong một môi trường. Đó là khu vực cồn cát Antioch (California, Mỹ). Nó trở thành loài chính thức có nguy cơ tuyệt chủng năm 1976.
Saint Francis Satyr: Loài bướm này chỉ xuất hiện ở Fort Bragg ở Bắc Carolina (Mỹ). Ước tính, số cá thể Saint Francis Satyr hiện chỉ còn dưới 1.000 con. Nguyên nhân chính khiến loài bướm này biến mất là môi trường sống bị đe dọa.
Schaus Swallowtail: Có thời điểm, Schaus Swallowtail được xem là loài bướm hiếm nhất Florida (Mỹ) khi chỉ còn khoảng vài trăm con. Tuy nhiên, những nỗ lực bảo tồn đã khiến số cá thể bướm hiện tại dao động khoảng 800-1.200 con. Đặc điểm dễ nhận thấy của chúng là phần trên cánh có màu nâu đen với dải trắng, vàng ở giữa. Sải cánh của chúng dài khoảng 9,2-11,8cm.
Leona’s Little Blue: Tên của nó được đặt theo Leona Rice – người phát hiện loài này lần đầu ở Klamath, Oregon (Mỹ). Số lượng cá thể ước tính hiện tại của Leona’s Little Blues còn khoảng 1.000 – 2.000 con. Chúng sống chủ yếu trên những cây kiều mạch. Tuy nhiên, “ngôi nhà” của chúng đang bị xâm phạm nhiều do quá trình khai thác gỗ và một số loài thực vật xâm lấn khác.
Bướm không thể bay nếu thời tiết lạnhTop 7 loài bướm hiếm nhất thế giới
Bướm cần nhiệt độ lý tưởng khoảng 85ºF (29ºC) để bay.
Vì bướm là động vật máu lạnh, chúng không thể điều chỉnh nhiệt độ cơ thể của chính mình. Nhiệt độ không khí xung quanh ảnh hưởng lớn đến khả năng hoạt động của chúng. Nếu nhiệt độ không khí dưới 55ºF (13ºC), bướm trở nên bất động, không thể chạy trốn khỏi kẻ thù hoặc đi tìm thức ăn.
Khi nhiệt độ không khí dao động từ 82º-100ºF (27ºC – 38ºC), bướm có thể bay dễ dàng. Những ngày mát hơn , con bướm cần làm cơ thể của nó bằng việc bay chậm. Khi nhiệt độ nóng tới 38ºC thì bướm cũng gặp khó khăn vì sức nóng và tìm một nơi mát mẻ để trú ẩn.
Bướm mới trưởng thành không thể bay. Bên trong cái kén, bướm đang phát triển chờ đợi thời điểm bước ra khỏi vỏ bọc. Khi đã thoát khỏi lớp vỏ nhộng, nó chào đón thế giới bằng đôi cánh nhỏ xíu héo.
Bướm phải ngay lập tức bơm chất lỏng vào cơ thể thông qua các tĩnh mạch ở cánh để mở rộng chúng. Một khi cánh của nó đạt kích thước đầy đủ, con bướm phải nghỉ ngơi trong vài giờ để cơ thể khô ráo và cứng lại trước khi nó có thể bay chuyến bay đầu tiên.
Bướm không thể bay nếu thời tiết lạnh
Bướm nghe bằng đôi cánh của mìnhBướm không thể bay nếu thời tiết lạnh
Như chúng ta đã biết, một số loại bướm nghe bằng những cái lỗ nhỏ ở cuống cánh của chúng. Những cái lỗ này được phủ bởi 1 màng mỏng, có chức năng giống như màng nhĩ ở người. Nhưng nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Tiến sĩ Jayne Yack, một giáo sư và nhà thần kinh học tại Khoa Sinh học tại Đại học Carleton ở Ottawa, Ontario, đã phát hiện ra rằng ít nhất một số loại bướm nghe bằng chính các cấu trúc trên cánh của chúng.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành phát âm thanh với tần số tương tự như giọng nói của người, đồng thời ghi lại hoạt động của cánh bướm bằng tia laze. Các mạch phồng của 30 con bướm giáp đều có phản ứng với âm thanh. Khi rạch một vết nhỏ trên các mạch phồng này, khả năng nghe của chúng bị cản trở. Vậy, rõ ràng cấu trúc trên cánh này có vai trò trong khả năng nghe của bướm.
Các nhà nghiên cứu không chắc chắn về cơ chế hoạt động của các thiết bị nghe đặc biệt này. Có thể chúng giúp nhóm bướm này điều tiết các âm thanh tần số thấp.
Cách loài bướm tiếp nhận đồ ănBướm nghe bằng đôi cánh của mình
Bướm có miệng haustellate. Chúng thực sự không thể nhai hoặc cắn thức ăn, vì vậy chúng chỉ uống chất lỏng dưới dạng mật hoa, nhựa cây, nước ép từ trái cây và một số khoáng chất.
Haustellate mouthparts là một sự thích nghi từ các miệng được sử dụng để nhai, được gọi là miệng Mandibulation. Tất cả các loài côn trùng nguyên thủy đều có những cái miệng bắt buộc, bởi vì chúng có những quả quýt lớn để nghiền nát thức ăn của chúng. Khi côn trùng phát triển, chúng phát triển các loại miệng khác nhau để thích nghi với môi trường và nhu cầu ăn kiêng.
Những con bướm mới thường cuộn tròn và tháo gỡ vòi của chúng để kiểm tra nó. Khi vòi không được sử dụng, nó vẫn cuộn tròn, giống như vòi trong vườn. Bướm chủ yếu ăn mật hoa hoặc phấn hoa. Chúng đậu trên bông hoa, tháo vòi của chúng ra và mút nước trái cây ngon lành, nhưng đó không phải là thứ duy nhất chúng ăn.
Bướm cho thấy một mối quan hệ đặc biệt với bùn. Hành vi này, được gọi là vũng nước hoặc vũng bùn hầu hết được nhìn thấy ở những con bướm đực, chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, mặc dù nó cũng xảy ra ở những vùng ôn đới hơn.
Bướm đực tụ tập tại các vũng nước vì đó là một nguồn khoáng chất tuyệt vời cần thiết cho tinh trùng khỏe mạnh. Những chất dinh dưỡng này được chuyển đến con cái trong quá trình giao phối và giúp cải thiện khả năng sống sót của trứng.
Một khoáng chất đặc biệt có giá trị là natri. Vì mật hoa thực vật bị thiếu natri, nhiều côn trùng trong chế độ ăn thực vật thường xuyên bị bỏ đói natri. Đây là lý do tại sao nhiều loài bướm bị thu hút bởi mồ hôi, phân hoặc thậm chí là carrion. Ngoài ra, bất kỳ vùng nước nào gần vũng nước có thể cho phép bướm hạ nhiệt trong thời tiết nóng và khô.
Nếu bạn đang ngồi trong công viên hoặc vườn vào một ngày nắng và một con bướm tình cờ đáp xuống bạn, nhiều người sẽ coi đó là một lời khen và một lời chúc nhỏ ngọt ngào, nhưng sự thật, con bướm có lẽ chỉ bị thu hút bởi muối và mồ hôi trên da của bạn!
Hạt mưa có sức sát thương rất lớn đối với bướmCách loài bướm tiếp nhận đồ ăn
Trung bình một con bướm chúa nặng 500mg, hạt mưa to nặng khoảng 70mg hoặc hơn. Vậy là hạt mưa có sức sát thương rất lớn đối với bướm. Hơn nữa, khi trời nắng, bướm sẽ dang rộng đôi cánh ra – điều này giúp chúng hấp thụ nhiệt, từ đó mới có đủ năng lượng để bay.
Khi trời mưa, khả năng bay của chúng hạn chế, rất dễ làm mồi cho kẻ ăn thịt như chim và các loài sâu bọ khác. Mặt khác, gió giật mạnh cũng là một mối nguy khôn lường.
Tất cả những lí do trên đã giải thích vì sao chúng ta rất ít thấy bướm bay trong mưa bão. Thay vào đó, chúng sẽ khép đôi cánh lại, tìm chỗ trú ẩn an toàn. Đó là chỗ dưới tán lá, nhánh cây, mảnh lá vụn, khe nứt của đá, bụi cỏ cao hay thậm chí là hàng rào của con người.
Ở những nơi có bão vào mùa đông, điều kiện sống còn khắc nghiệt hơn. Do càng ở gần mặt đất, nhiệt độ càng xuống thấp nên bướm phải cố bay lên cành cao. Ngoài ra, xung quanh thân cây sẽ tỏa ra nhiệt giúp bướm ấm áp hơn.
Sống gần gũi với thiên nhiên, thổ dân Zuni ở Mexico từng truyền miệng rằng: “Thấy bướm trắng bay về phía Tây Nam, tức trời sắp mưa lớn”. Thật vậy, bướm sẽ dáo dác tìm nơi trú ngụ khi trời muốn mưa và ở đó im lìm suốt nhiều giờ đồng hồ. Qua cơn mưa, trời lại sáng, bướm liền kéo nhau từng đàn bay ra ve vãn, tạo nên cảnh tượng vô cùng đẹp mắt khiến những tay săn ảnh hay người yêu thiên nhiên phải choáng ngợp!
Bướm sử dụng nhiều thủ thuật để tồn tạiHạt mưa có sức sát thương rất lớn đối với bướm
Bướm chỉ sống được vài tuần, một khi nó xuất hiện từ cái kén và trưởng thành như một người lớn, con bướm chỉ có 2-4 tuần ngắn ngủi để sống, đây là đặc điểm của hầu hết loài bướm. Trong thời gian đó, nó tập trung toàn bộ năng lượng vào hai nhiệm vụ – ăn uống và giao phối. Bướm tí hon blues chỉ sống được vài ngày, nhưng bướm vua sống tận tới 9 tháng.
Bướm xếp hạng khá thấp trong chuỗi thức ăn của những loài động vật ăn thịt. Để tồn tại trong thế giới tự nhiên đầy nguy hiểm, bướm sử dụng một số thủ thuật để sống sót.
Một số bướm gấp đôi cánh của chúng để pha trộn vào môi trường, đánh lừa thị giác của động vật săn mồi. Những con khác thử chiến lược ngược lại, sử dụng màu sắc rực rỡ của mình để tuyên bố sự hiện diện của nó. Những con côn trùng màu sắc tươi sáng thường tiềm ẩn độc tố nếu động vật ăn vào, do đó những kẻ ăn thịt học cách tránh chúng.
Một số loài bướm không độc hại chút nào, vẫn cố gắng tỏ ra hiếu chiến và chiến thuật này đã đạt được sự hiểu quả khi kẻ săn mồi bỏ đi vì nghi ngờ có độc.
Màu sắc của bướm được tạo ra từ hàng nghìn vảy nhỏ li tiBướm sử dụng nhiều thủ thuật để tồn tại
Bướm là các loài côn trùng nhỏ, biết bay, hoạt động vào ban ngày thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera), có nhiều loại, ít màu cũng có mà sặc sỡ nhiều màu sắc cũng có. Thường chúng sống gần các bụi cây nhiều hoa để hút phấn hoa, mật hoa, góp phần trong việc giúp hoa thụ phấn. Bướm ngày nhiều khi gọi tắt là bướm hay bươm bướm, mặc dù bướm có thể chỉ đến bướm đêm (ngai ngài).
Màu sắc của các loài bướm được tạo ra từ hàng nghìn vảy nhỏ li ti, được xếp lên nhau. Đôi khi nó cũng là những hạt có màu, nhưng trong trường hợp thông thường thì bề mặt tạo ra các vảy này có thể khúc xạ ánh sáng, do đó cánh bướm có màu liên tục thay đổi, lấp lánh khi di chuyển. Thường thì phía dưới có màu xám hoặc nâu khác xa với màu sặc sỡ ở phía trên. Những màu xấu xí này sẽ dùng để ngụy trang khi cánh của nó xếp lại. Điều này sẽ giúp nó thoát khỏi con mắt săn lùng của các loài chim và sâu bọ khác.
Mỗi con bướm đều có 4 cánh nhưng lại hoạt động như 1 cặp. Bướm đập cánh tương đối chậm (khoảng 20 lần/phút). Tuy vậy, nhiều loài bướm có thể bay rất nhanh và mạnh. Thậm chí có các loài nhỏ nhưng cũng có thể bay xa khi di trú. Ví dụ như bướm Comma có thể bay từ giữa sa mạc Sahara đến Anh, với khoảng cách 2000 dặm trong vòng 14 ngày. Bướm vua di trú hàng năm từ California đến Canada và vô tình bay qua cả Đại Tây Dương.
Loài bướm đêm có cơ chế phòng thủ quái dịMàu sắc của bướm được tạo ra từ hàng nghìn vảy nhỏ li ti
Để đối phó với kẻ thù truyền kiếp, loài bướm đêm đã phát triển một cơ chế phòng vệ lạ thường: dùng cơ quan sinh dục phóng ra các luồng sóng siêu âm.
Trong những hang động tối tăm và các khu rừng rậm rạp trên thế giới, một cuộc chiến tiến hóa dai dẳng và kịch tích kéo dài 65 triệu năm đang diễn ra giữa loài dơi với bướm đêm. Rõ ràng bướm đêm là kẻ yếu, nhưng các nhà khoa học vừa biết rằng loài này đã tìm được những biện pháp tài tình để chống lại vũ khí lợi hại của kẻ thù.
Phát hiện mới nhất là loài bướm đêm lớn có khả năng làm nhiễu tín hiệu định vị mà dơi sử dụng trong cuộc rượt đuổi trường kỳ trong bóng đêm. Khi bị dơi truy đuổi, chúng chà xát bộ phận sinh dục vào bụng để tạo ra sóng siêu âm, có tác dụng làm nhiễu khả năng xác định phương hướng của kẻ thù. Để rút ra kết luận trên, đội ngũ chuyên gia bật tín hiệu của dơi và hướng về các đối tượng là nhiều loài bướm đêm. Trong đó, 3 loài bướm đêm, gồm Cechenena lineosa, Theretra boisduvalii và Theretra nessus, bắt đầu phát ra sóng siêu âm.
Trước đó, bướm hổ là loài duy nhất được ghi nhận có khả năng làm nhiễu sóng của dơi. Giờ đây, các nhà nghiên cứu phát hiện cả bướm đêm lớn lẫn bướm hổ đều sở hữu đôi tai phát hiện được sóng định vị của dơi, đồng thời có luôn khả năng phản ứng bằng cách phát trả lại dạng sóng tương tự. Điểm khác nhau ở đây là tai của bướm đêm lớn ở trên mặt, còn tai bướm hổ ở phần ngực. Và bướm hổ cũng phát tín hiệu siêu âm bằng cách dùng các màng ở vùng ngực.
Bướm bị cận thịLoài bướm đêm có cơ chế phòng thủ quái dị
Trong khoảng 10-12 feet (3 mét – 3,2 mét), mắt nhìn bướm khá tốt. Bất cứ thứ gì ngoài khoảng cách đó sẽ bị mờ một chút với đôi mắt của bướm. Bướm dựa vào thị lực của nó để làm những nhiệm vụ quan trọng, như tìm kiếm bạn tình và tìm mật hoa.
Ngoài việc nhìn thấy một số màu sắc chúng ta có thể nhìn thấy, bướm có thể nhìn thấy một loạt các màu cực tím mà mắt con người không nhìn thấy được. Bản thân những con bướm này có các dấu hiệu tia cực tím trên đôi cánh, giúp chúng xác định lẫn nhau và tìm ra những người bạn tiềm năng. Các bông hoa cũng phát ra những dấu hiệu cực tím để báo hiệu với các loài thụ phấn như bướm rằng – “hãy thụ phấn cho tôi!”
Bướm gây hại và cách phòng tránh bệnh do bướm gây raBướm bị cận thị
Trên thực tế cho biết, bản thân bướm hay sâu bướm không có độc và cũng không trực tiếp tấn công con người. Tuy nhiên, áo ngoài của chúng có phủ một lớp lông phấn dày đặc, đối với làn da yếu ớt và nhạy cảm sẽ bị dị ứng nặng nếu bị dính phải phấn bướm.
Ở một số trường hợp nặng có thể xảy ra là viêm da do côn trùng, làn da sẽ bị mẩn đỏ, xuất hiện mụn nước, ngứa, nóng rát,… Triệu chứng này tương đối dễ chữa trị, chỉ cần thoa kem ngoài da cũng hết. Căn bệnh thứ hai có thể mắc phải khi hít phải phấn bướm là hen suyễn. Trường hợp này xảy ra nhiều ở trẻ nhỏ, nên các bậc cha mẹ cần chú ý bảo vệ con mình trước sinh vật tưởng như hiền lành và vô hại này.
Như đã nói, loài bướm không trực tiếp tấn công cho con người nên không nhất thiết chúng ta phải tiêu diệt bươm bướm gay gắt như các loài côn trùng gây hại khác. Mà chỉ cần tránh tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với chúng là an toàn rồi. Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ cần hạn chế cho bé vui chơi ở những khu vực có bụi cây rậm rạp hoặc nơi ao tù nước đọng. Ở nơi này, không chỉ có bươm bướm mà nhiều sinh vật khác cũng trú ngụ ở đây.
Cách ly không gian nhà ở với môi trường có nhiều côn trùng gây hại bên ngoài, bằng cách sử dụng ngay cửa lưới chống muỗi, một vật dụng thông minh và hết sức tiện ích trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Cửa lưới chống muỗi và côn trùng sẽ giúp bạn ngăn chặn được tác nhân gây hại bên ngoài nhưng vẫn đảm bảo giữ ngôi nhà được thông thoáng, gần gũi với thiên nhiên. Cửa lưới an toàn cho con người và môi trường, ngoài ra còn tiết kiệm phần lớn chi phí cho các loại hóa chất tiêu diệt côn trùng khác.
Bướm nếm mùi vị bằng chânBướm gây hại và cách phòng tránh bệnh do bướm gây ra
Bướm có thể nếm thức ăn của chúng, nhưng không qua miệng. Thay vào đó, vị giác của bướm nằm ở đôi chân của bướm! Một bàn chân của động vật phục vụ như các cơ quan vị giác nghe có vẻ vô lý, đó có thể là lý do tại sao các nhà nghiên cứu thậm chí không bao giờ xem xét khả năng.
Hầu hết các nghiên cứu ban đầu trong lĩnh vực này đã xem ăng-ten hoặc palpi, một phần của miệng bướm, là cơ quan vị giác chính. Suy nghĩ là nếu con người và hầu hết các động vật có vú khác có lưỡi để nếm, một cơ quan tương tự phải phục vụ cùng chức năng ở côn trùng.
Thiên nhiên hiếm khi hoạt động theo cách thẳng thắn và có thể dự đoán được. Chỉ đến cuối những năm 1800, các nhà nghiên cứu mới bắt đầu thực hiện một cách tiếp cận vượt trội hơn cho vấn đề này. Đây là khi họ phát hiện ra rằng đó là chân chứ không phải miệng, có chức năng như thụ thể vị giác ở loài bướm!
Các chồi vị giác được gọi là chemoreceptors tiếp xúc, thụ thể vị giác hoặc giác quan cơ bản trong một số tài liệu. Những chất hóa học này được gắn vào đầu dây thần kinh. Khi các hóa chất có trong xung quanh côn trùng tiếp xúc với các chất hóa học, chúng sẽ kích hoạt các dây thần kinh, truyền thông tin đến não của côn trùng.
Tập quán di cư của loài bướmBướm nếm mùi vị bằng chân
Nghiên cứu phát hiện thấy từ hàng triệu năm qua, loài bướm vẫn thực hiện hành trình di cư trên quãng đường dài từ Canada xa xôi ở phía Bắc tới Mexico ở phía Nam để trú Đông, một vài thế hệ sau này của chúng có di cư ngược trở lại vào mùa Hè. Đây là kết quả được đưa ra dựa vào các phân tích bí ẩn từ 101 mẫu gene thu thập được từ loài côn trùng này trên toàn thế giới.
Những phân tích này đã đổi mới hiểu biết về lịch sử loài bướm di trú với bộ cánh phối hợp hai màu cam sáng và đen đặc biệt này bởi trước đó nhiều nhà khoa học cho rằng hiện tượng di trú chỉ mới xuất hiện gần đây. Những hiểu nhầm này xuất phát từ thực tế rằng hầu hết thành viên của họ bướm sinh sôi bên ngoài khu vực Bắc Mỹ đều là loài nhiệt đới, không di trú chính vì thế các nhà khoa học luôn nghĩ rằng tổ tiên của chúng cũng vậy và chỉ bắt đầu di cư từ thế kỷ 19.
Những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học dựa trên việc lập di truyền phả hệ cho thấy loài bướm di cư này có nguồn gốc từ loài bướm di cư xuất hiện hơn 2 triệu năm trước. Họ cũng phát hiện ra khả năng di cư của loài bướm có liên hệ với hình thái gene đơn quy định sự hình thành và chức năng các cơ trên cánh của chúng.
Năm 1996, hàng tỷ con côn trùng này đã hoàn thành chặng đường Bắc – Nam nhưng đến năm ngoái số lượng giảm chỉ còn 35 triệu con. Sự sụt giảm này được cho là hậu quả của nạn tàn phá rừng, tình trạng hạn hán và việc sử dụng thuốc trừ sâu với các cây bông tai, loại thức ăn chính đồng thời cũng là nơi mà loài bướm đẻ trứng. Các nhà khoa học hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ gợi ý cách bảo tồn tập quán di cư cho loài bướm.
Quá trình sâu biến thành bướmTập quán di cư của loài bướm
Quá trình sâu kén “lột xác” biến thành bươm bướm thật dai dẳng và gian khổ. Nhưng bù lại, khi bướm thoát khỏi xác nhộng, giang đôi cánh đẹp tuyệt vời thì những gian khổ phải chịu đựng trước kia có lẽ cũng đã được đền đáp.
Vòng đời của một con bướm bắt đầu từ giai đoạn trứng. Bướm thường đẻ trứng trên lá những loại cây là thức ăn ưa thích của chúng. Trứng rất bé và có nhiều hình dạng khác nhau nhưng chủ yếu là dạng hình cầu. Bướm thường đẻ trứng trên chính lá của các cây mà chúng vẫn thường ăn. Trứng bướm rất bé và có nhiều hình dạng khác nhau nhưng chủ yếu là dạng hình cầu.
Giai đoạn trong trứng này kéo dài vài tuần cho đến khi trứng nở ra ấu trùng (sâu bướm). Bữa ăn đầu tiên của sâu bướm chính là vỏ trứng của mình. Sau 2 – 3 tuần ăn uống no nê, sâu bướm lớn hơn sẽ nhả tơ kết thành một khối chúng ta gọi là kén, nó cho cơ thể vào trong, thoát xác và hóa thành nhộng.
Lớp chất nhầy như lớp keo dán đặc biệt giúp con nhộng được giữ cố định. Màu sắc lớp vỏ bảo vệ giống chiếc lá héo úa, giúp chúng ngụy trang tốt nhất. Lúc này, nhộng vẫn dựa vào một thanh gai ở đoạn đuôi dính chặt vỏ kén và chuẩn bị cho quá trình thoát ra ngoài. Sau hơn 2 tuần, bướm ở trong cọ lưng vào kén tạo thành lỗ thủng nhỏ để chui ra.
Bướm mới thoát khỏi lớp kén chưa thể bay ngay bởi đôi cánh còn chưa khô ráo và cứng cáp. Sau khoảng 1 giờ đồng hồ, đôi cánh của bướm có kích thước đầy đủ, khô và sẵn sàng để bay.
Đăng bởi: Thị Hương Vũ
Từ khoá: 18 Sự thật thú vị nhất về loài bướm
14 Sự Thật Thú Vị Nhất Về Loài Cua
Con cua 8 cẳng 2 càng đã trở thành loài vật gần gũi và quen thuộc với con người bởi giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế mà nó mang lại. Thế giới loài cua còn nhiều điều thú vị mà con người cần khám phá. Bài viết này, chúng mình đưa đến những sự thật thú vị về loài cua có thể bạn chưa biết.
Loài cua kỳ lạ cư ngụ hoàn toàn trên cây ở Ấn ĐộCác nhà khoa học tại Đại học Kerala, Ấn Độ, phát hiện một loài cua mới kỳ lạ, sống trên cây trong những khu rừng ở vùng Western Ghats, phía nam Ấn Độ. Chúng được mô tả trong bài báo đăng trên tạp chí Crustacean Biology hôm 3/4. Bộ tộc Kani địa phương biết về sự tồn tại của những con cua đặc biệt này nên đã giúp đỡ nhóm nghiên cứu tìm thấy chúng. Để ghi nhận công sức của họ, loài cua được đặt tên khoa học là Kani maranjandu.
Đây là lần đầu tiên giới khoa học phát hiện một loài cua sống hoàn toàn trên cây. Nhà của chúng là các vũng nước trong lỗ rỗng của cây, thay vì trên mặt đất giống cua thông thường.
Con người ít biết đến cua Kani maranjandu một phần do bản tính của chúng khá nhút nhát. Người dân bộ tộc Kani đã dạy cho các nhà nghiên cứu cách xác định vị trí của con vật bằng cách tìm kiếm những mảnh gỗ vụn và bong bóng khí bị đẩy ra khỏi lỗ trên cây. Cua Kani maranjandu có lớp vỏ màu tím đen và chân thon dài thích hợp với cuộc sống trên cây.
Các nhà khoa học cho biết đây là khám phá rất quan trọng. Cua Kani maranjandu đóng vai trò là sinh vật chỉ thị trong lĩnh vực sinh thái học. Nơi nào có số lượng cua nhiều thì chứng tỏ nơi đó hệ sinh thái rừng vẫn tốt. Lỗ rỗng chứa nước trên cây lớn là môi trường sống của loài cua độc đáo này.
Cấu tạo của loài cuaLoài cua kỳ lạ cư ngụ hoàn toàn trên cây ở Ấn Độ
Phần đầu ngực: Phần đầu và phần ngực ở cua dính liền với nhau, ranh giới giữa các đốt không rõ ràng. Cãn cứ vào phần phụ mang trên đó mà biết được số đốt tạo thành. Đầu gồm 5 đốt mang mắt, anten và các phần phụ miệng. Ngực gồm 8 đốt mang các chân hàm và các chân bò. Mặt lưng của phần đầu ngực được bao bọc trong giáp đầu ngực (mai cua). Mé trước của giáp đầu ngực có hai hố mắt mang hai mắt nằm trên cuống mắt. Giữa hai hố mắt, mỗi bên mép trước của giáp đầu ngực có 9 gai nằm liên tiếp nhau. Mặt trên của giáp đầu ngực phân chia thành từng vùng nhỏ ngăn cách bởi rãnh và gờ rõ rệt. Phía trước là vùng trán, kế tiếp là vùng dạ dày ngăn cách với nhau bởi hai gờ. Tiếp theo là vùng tim, sau vùng tim đến vùng ruột. Hai bên vùng dạ dày là vùng gan. Ngoài cùng là vùng mang. Mặt bụng của phần đầu ngực có các tấm bụng. Các tấm bụng làm thành vùng lõm ở giữa chứa phần bụng gập vào. Ở con cái có đôi lỗ sinh đục nằm ở tấm bụng thứ ba được phần bụng gập lại che lấp.
Phần bụng: Phần bụng gồm 7 đốt với các phần phụ bị tiêu giảm nằm gấp lại dưới phần đầu ngực (thường gọi là yếm cua) làm cho cua thu ngắn chiều dài và gọn lại giúp cua bò được dễ dàng. Phần bụng ở cua cái và cua đực có sai khác. Ở con cái chưa trưởng thành sinh dục (trước thời kỳ lột xác tiền giao vĩ) phần bụng (yếm) hơi vuông (thường gọi là cua cái yếm vuông, cua cái so). Sau khi lột xác tiền giao vĩ yếm trở nên tròn (yếm bầu) kích thước yếm lớn che chủ phần lớn mặt bụng phần đầu ngực. Phần bụng của cua đực hẹp, ngang hẹp dần về phía sau có dạng hình tam giác và cũng nằm gọn trong phần lõm của các tấm bụng của phần đầu ngực, ở con cái các đốt bụng I, II và VII khớp động với nhau, các đốt bên, các đốt khác bất động, các chân bụng chẻ đôi biến thành các chùm lông yếm để trứng đẻ ra bám vào đấy để phát triển. Lỗ hậu môn nằm ở cuối cùng. Ở con đực các đốt bụng I, II, V và VI khớp động với các đốt bên. Các chân bụng thoái hóa biến thành đôi gai giao cấu, lỗ hậu môn nằm ở cuối cùng.
Các phần phụ:
Hàm dưới I: gồm phần gốc hai lá. Trên đầu hai lá có nhiều lông… Nhánh trong của phần ngọn dạng bản mỏng gồm hai đốt có lông ở cạnh trong.
Hàm dưới II: gồm phần gốc hai lá: lá trong hình lưỡi dao, đầu có nhiều lông; lá ngoài hai nhánh đầu loe rộng và có nhiều lông.
Chân hàm I: gồm phần gốc hai lá: lá trong nhỏ và trên đầu có nhiều lông cứng, lá ngoài đầu loe rộng và mép ngoài có lông ngắn. Phần ngọn gồm hai nhánh: nhánh trong hình lá cờ, mép trong có nhiều lông dài, nhánh ngoài gồm 3 đốt. Ở phần gốc còn có tấm kitin mỏng hình lá lúa có tơ dài theo hướng phía ngoài và lui về sau gọi là mang khỏa nước.
Chân hàm II: gồm có nhiều phần gốc nhỏ, phần ngọn hai nhánh, nhánh trong 5 đốt, mép trong có nhiều lông, nhánh ngoài có 3 đốt. Phía ngoài từ phần gốc có mang khớp hình lông chim và ngoài cùng ở phía dưới có mang khỏa nước.
Chân hàm III: đã kitin hóa rất mạnh, gồm phần gốc hai đốt. Phần ngọn có hai nhánh.
Chân ngực: gồm 5 đôi. Đôi thứ nhất phát triển lớn đầu có kẹp (càng cua). Ở con đực hai càng có kích thước khác nhau rõ rệt, thường càng bên phải lớn hơn càng bên trái. Càng cua vừa để bắt mồi vừa là cơ quan tự vệ và tấn công kẻ thù lợi hại. Các đôi chân thứ 2, 3, 4 là chân bò có 5 đốt, đốt cuối cùng vuốt nhọn. Đôi chân thứ 5 các đốt có dạng hình bản biến thành bơi chèo, là động lực chính khi cua bơi.
Chân bụng: ở cua cái có 4 đôi chân bụng, từ đốt bụng thứ nhất đến đốt bụng thứ tư biến thành cơ quan giữ trứng. Các chân bụng cấu tạo giống nhau, gồm một đốt gốc và phần ngọn gồm hai nhánh hình lá lúa mép mỏng có lông dài phủ, nhánh trong phân đốt, nhánh ngoài không phân đốt. Ở cua đực chỉ còn lại đôi chân bụng thứ nhất và thứ hai biến thành chân giao cấu. Phần gốc gồm 3 đốt, phần ngọn chỉ còn nhánh trong, không phân đốt.
Cấu tạo của loài cua
Tìm thấy loài cua “dâu tây” mớiCấu tạo của loài cua
Theo AP, người phát hiện loài cua mới là giáo sư Ho Ping-ho của Đại học Hải dương Đài Loan. Ông nói rằng chúng có hình dạng khá giống những loài cua sống ở vùng biển Hawaii (Mỹ), quần đảo Polynesia và quốc đảo Mauritius (phía tây nam Ấn Độ Dương). Tuy nhiên, loài cua mới sở hữu chiếc mai có hình dạng giống vỏ trai và dài khoảng 2,5 cm. Chiếc mai khiến chúng trở nên khác biệt so với những loài cua màu đỏ.
Wang Chia-hsiang, một chuyên gia hàng đầu về cua tại Đài Loan, xác nhận phát hiện của giáo sư Ho.
Ho cho hay ông và các cộng sự tìm thấy hai cá thể cái thuộc loài cua mới trong khu bảo tồn Kenting – nơi có nhiều loài động vật biển. Hai con cua đã chết khi các nhà khoa học nhìn thấy chúng. Ho cho rằng rất có thể chúng chết vì một tàu chở hàng mắc cạn gần khu bảo tồn khiến nước bị ô nhiễm.
Cua là động vật ăn tạp. Thức ăn chính của chúng là tảo. Theo Daily Mail, các nhà khoa học đã xác định được hơn 5.000 loài cua trên thế giới.
Cấu tạo trongTìm thấy loài cua “dâu tây” mới
Cắt bỏ mặt trên của giáp đầu ngực (mai cua) gỡ lớp bọc phía trên thấy các nội quan của cua nằm trong phần đầu ngực ứng với vị trí các vùng trên mai cua. Nằm trên trục giữa phía trước là dạ dày, rồi đến tim sau cùng là khối manh tràng ruột. Hai bên dạ dày là khối tuyến gan, tuỵ bên trên cơ thể thấy tuyến sinh dục. Nằm lấp dưới tuyến gan tụy, trong phòng mang là các mang khớp, một đầu dính với gốc phần phụ, một đầu tự do trong phòng mang.
Hệ tiêu hóa: Lỗ miệng ở mặt bụng thông với thực quản ngắn, nằm theo trục lưng bụng con vật, đổ vào dạ dày. Dạ dày gồm có hai khoang : thượng vị có bộ máy nghiền kitin sắc và hạ vị ngăn cách với khoang thượng vị qua cửa thông. Từ hai bên khoang hạ vị có hai manh tràng hạ vị nằm trên khối gan tụy. Khoang hạ vị thông với ruột chạy về phía sau đi vào phẫn bụng và tận cùng là lỗ hậu môn năm ở cuối bụng. Ở phần đầu ruột còn có đôi manh tràng ruột dài. Khối tuyến gan tụy rất phát triển, lấp kín cả phần trước khoang đầu ngực, gồm rất nhiều thùy hình sợi.
Hệ tuần hoàn gồm: Gan tụy tạng, Tim, Dạ dày nghiền, Ống dẫn tinh, Tinh hoàn, Manh tràng ruột, Mang, Ống ruột, Cơ quan quạt nước, Hậu môn. Máu của cua không có màu, trong suốt. Tim của cua có hình năm góc, nằm ở phía sau dạ dày trong bao tim mỏng và trong suốt, có 3 đôi lỗ tim: 2 đôi phía lưng, 1 đôi phía bụng. Từ tim phát đi 2 động mạch lớn về phía trước và sau cơ thể, vào cơ quan rồi theo các khe xoang tập trung vào mang, ở mang máu thải CO2 và nhận O2, rồi theo các ống mạch trở về tim.
Hệ hô hấp: Gồm 8 đôi mang lớn dài dính liền với phần gốc các phần phụ nằm trong khoang mang ở hai phía của bộ phận đầu ngực. Ngoài ra còn có các mang khỏa nước. Các mang khớp gồm có một trục dọc và hai dãy lá mang xếp liên tiếp dọc theo trục mang. Nước bên ngoài đi vào mang cua thông qua khe hút nằm dưới càng cua, các mang khỏa nước khuấy trong khoang mang làm cho nước chảy vào liên tục và nước thoát ra qua khe nằm dưới ngoe xúc tu thứ hai. Như vậy dòng nước sẽ chạy liên tục trong mang. Nước đi qua mang, các huyết quản của mang tiếp nhận oxy và thải khí carbonic vào nước ra ngoài. Khi cua lên cạn một lượng nước được giữ lại trong khoang mang giúp cho cua tiếp tục hô hấp và sống được một thời gian dài.
Hệ sinh dục: Ở con đực tuyến tinh màu trắng nhạt nằm trên khối gan tụy. Ống dẫn tinh dài, cuộn lại rồi đổ ra lỗ sinh dục đực ở mặt bụng. Ở con cái tuyến trứng thay đổi màu sắc tùy theo giai đoạn phát triển của tế bào sinh dục. Trứng chín có màu đỏ da cam. Ống dẫn trứng ngắn to đổ thẳng ra lỗ sinh dục cái ở mặt bụng gần gốc đôi chân thứ ba của cua.
Hệ thần kinh: Đặc điểm của hệ thần kinh ở cua là có hiện tượng tập trung cao độ của các hạch thần kinh ngực và bụng. Ở phần đầu, hệ thần kinh gồm hạch não và vùng thần kinh thực quản. Trên mỗi nhánh của vùng này có một hạch nhỏ, được coi là hạch giao cảm. Vòng thần kinh thực quản nối với hạch thần kinh ngực bụng, tại đó có nhiều dây thần kinh đi tới các phần phụ ngực và nội quan. Chính giữa khối hạch này có một lỗ nhỏ. Phía sau khối hạch thần kinh ngực bụng có một đôi dây thần kinh bụng dài đi vào phần bụng. Ở vùng não trước, não sau, trên các hạch ngực, hạch thị giác và cuống mắt còn có tuyến thần kinh nội tiết có khả năng tiết được các kích thích tố điều khiển quá trình lột xác, sinh giao tử, phân hóa tính đực, cái, biến đổi màu sắc : tuyến lột xác và điều khiển sinh trưởng, tuyến kìm hãm sinh trưởng, lột xác.
Tập tính sinh sản của cuaCấu tạo trong
Trước lúc lột xác giao phối khoảng 2 đến 10 ngày cua đực và cua cái sẽ ghép đôi với nhau. Cua đực (thường lớn hơn cua cái) dùng các chân bò và cái càng ôm chặt lấy cua cái trên mặt lưng. Nó mang con cái đi quanh suốt có khi kéo dài 3 đến 4 ngày hoặc hơn nữa. Đến khi con cái sắp lột vỏ để giao phối thì con đực mới rời con cái ra và ở cạnh; con cái vừa lột xác xong, con đực liền ôm con cái áp sát mặt bụng vào nhau và phần gỡ yếm con cái ra để giao phối.
Thời gian giao phối có thể kéo dài từ khoảng 5 giờ đến cả ngày. Sau đó con đực buông cua cái ra, nhưng vẫn sẽ đi cạnh để bảo vệ cua cái. Sau khi giao phối, túi tinh được giữ ở bộ phận nhận tinh của cua cái trong khoảng thời gian dài để thụ tinh cho trứng của cua cái. Trong mùa sinh sản cua cái có thể đẻ trứng từ 1 – 3 lần và được thụ tinh nhờ tinh trùng nhận được vào khoảngđầu mùa sinh sản. Thí nghiệm của chúng tôi cho thấy cua gạch bắt về nuôi trong một bể xi măng (không có cua đực) từ tháng 7 đến tháng 10 đã đẻ trứng 3 lần và trứng các lần đẻ đều đã phát triển thành ấu trùng.
Cua cái sau khi giao phối, tế bào trứng sẽ tiếp tục sinh trưởng và chín, đẻ trứng và thụ tinh. Khi đẻ trứng cua cái nằm ở đáy, dùng các chân bám vào bên nền đáy, phần đầu ngực được nâng lên phần bụng được mở ra, các chân bụng được dựng đứng lên, trứng chín qua ống dẫn trứng đã được thụ tinh với tinh trùng từ túi chứa tinh trùng.
Trứng được đẻ ra được chứa trong phần bụng con cái có 2 lớp màng; màng ngoài hút nước sẽ trương lên. Giữa 2 lớp màng có niêm dịch. Nhờ những cử động của phần bụng, trứng bám trên lông tơ của chân bụng và do tác dụng của ngoại lực màng ngoài của trứng, kéo dài ra thành những “cuống trứng”, làm cho trứng tuy dính vào lông của phần chân bụng nhưng vẫn “tự do’’ và trứng không dính lại với nhau. Những cua cái ôm trứng gọi là cua trứng, trứng được cua cái ôm tiếp tục phát triển cho đến lúc thành những ấu trùng mới rời khỏi bụng cua, nên cũng gọi là “cua con”.
Tập tính sinh sản của cua
Quá trình lột xác của cuaTập tính sinh sản của cua
Trong giai đoạn phát triển từ ấu trùng đến khi trưởng thành loài cua phải trải qua nhiều lần lột xác. Loài cua và các động vật giáp xác có phần cơ thể được bao bọc với một bộ xương ngoài bằng kitin. Nhờ thấm canxi và vôi hóa nên lớp vỏ của cua rất cứng cáp. Trong khi lớp vỏ là cố định còn các động vật giáp xác lớn lên theo thời gian, nên lớp vỏ này phải được thay thế định kỳ trong quá trình biến thái (từ dạng ấu trùng bơi tự do cho đến khi trưởng thành) hoặc đơn giản là khi chúng phát triển nhô ra ngoài lớp vỏ.
Trước khi lột xác, một con cua thường hấp thụ lượng canxi từ bộ vỏ cũ, sau đó tiết ra enzyme để tách lớp vỏ cũ ra khỏi lớp da hoặc lớp biểu bì. Lớp da này sẽ được bao bọc bởi ra một lớp vỏ mới, mềm hơn và mỏng hơn so với lớp vỏ cũ, NOAA cho hay.
Trước khi lột xác một ngày, cua bắt đầu hấp thụ nước biển, cơ thể bắt đầu phồng lên như một quả bóng. Việc làm này giúp chúng mở rộng lớp vỏ cũ và tách ra một đường nứt nhỏ chạy khắp cơ thể. Con cua sau đó sẽ tự rút lớp vỏ cũ bằng cách đẩy ra và thu lại các phần cơ thể nhiều lần, cho đến khi rút phần chân trước và hoàn toàn tách ra khỏi lớp vỏ cũ. Quá trình thay vỏ mới của một con cua thường kéo dài trong vòng 15 phút.
Để phát triển, một con cua phải trải qua nhiều lần lột xác biến thái. Thời gian giữa các lần lột xác có thể thay đổi tùy theo từng giai đoạn. Ấu trùng có thể lột xác trong vòng 3-5 ngày một lần. Cua lớn lột xác để phát triển thường từ nửa tháng đến một tháng một lần. Trong quá trình lột xác, cua có thể mất một số bộ phận như chân, càng, tuy nhiên có thể tái sinh được những bộ phận này trong những lần lột xác tiếp theo.
Những loài cua có vẻ bề ngoài quái dị nhấtQuá trình lột xác của cua
Thế giới loài của rất đa dạng về cả hình dáng và kích thước. Một vài con rất đáng sợ, một vài con đầy màu sắc, và không ít con rất kỳ quái.
Cua Halloween. Loài của này có rất nhiều màu sắc. Cua Halloween sống chủ yếu ở vùng biển Mexico, Trung Mỹ và có thể ở tận Peru. Chúng thường lang thang trong rừng và ăn lá cây hoặc hạt cây. Loài này có sở thích ăn đêm. Tuy sống chủ yếu trên mặt đất nhưng loài cua này lại phải về nước để đẻ trứng.
Cua dừa. Đây là một trong những loài chân đốt lớn nhất trên cạn. Nó nặng tới 4,1kg. Cua dừa sống chủ yếu trên những hòn đảo ở phía nam Thái Bình Dương. Chúng ăn quả hạch, hạt và thỉnh thoảng là dừa. Chúng là loài khá “quái đản” khi có một hệ thống hô hấp đặc biệt, không phải yếm, không phải phổi mà là một cái gì đó giữa 2 bộ phận này. Các cơ quan cảm giác của chúng giống của côn trùng hơn là của cua.
Cua vua gai. Toàn thân loài cua này được bao phủ bởi một lớp gai, vừa giúp chúng ngụy trang, vừa giúp chúng tự bảo vệ mình khỏi kẻ thù. Loài này sống ở độ sâu 730m dưới biển. Chúng ăn sao biển, các loài cua khác và các chất thải từ bên trên rơi xuống.
Cua hộp nâu. Đây cũng là một loại cua vua. Chúng có cách hô hấp kỳ lạ: khi đưa những càng trước qua mai, hình chữ V trên càng cùng với chân liền kề sẽ tạo thành một lỗ nhỏ, cho phép nước chảy vào phổi, dưới lớp cặn.
Cua san hô mềm. Những con “quái vật” này có khả năng ngụy trang cực tốt khi sống cùng với những rặng san hô mềm và ăn sinh vật phù du.
Cua hổ vằn. Loài này sống chủ yếu ở Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, Australia. Loài này có hình thù kỳ dị, với những vệt màu sậm, trắng giống như ngựa vằn.
Cua đười ươi. Thuộc họ nhà nhện và cua, loài sinh vật nhỏ bé kỳ lạ này có ngoại hình rất giống đười ươi. Chúng có bộ lông màu cam dày, 2 chân dài trông như tay đười ươi.
Cua sứ. Loài cua này không hẳn là cua, chúng là một loại tôm tiến hóa, có vẻ ngoài giống cua. Chúng khá mong manh, dễ vỡ. Loại này thường bị mất chân khi chạy trốn khỏi kẻ thù và sau đó những chân này được mọc lại. Loài này ăn chất nhầy của những cây tảo biển, giúp chúng làm sạch bản thân, trong khi loài tảo bảo vệ cua khỏi kẻ thù.
Những loài cua có vẻ bề ngoài quái dị nhất
Các loại cua độc nguy hiểm nhất hiện nayNhững loài cua có vẻ bề ngoài quái dị nhất
Cua mặt quỷ: Cua mặt quỷ là loại cua biển chứa độc tố phổ biến trải dài từ vùng biển Đà Nẵng đến Vũng Tàu, thường sống ở các rạn cạn và thủy triều thấp. Cua mặt quỷ có kích thước khá nhỏ gọn trong lòng bàn tay, trên mai có nhiều cục u lồi, dẹt ở ngoài vỏ và màu sắc bắt mắt, không giống những loài cua biển khác. Trong thịt và vỏ của cua mặt quỷ có một lượng lớn chất kịch độc cho hệ thần kinh như Tetrodotoxin và Saxitoxin, có thể gây tử vong cho con người nếu không may ăn phải dù chỉ là liều cực thấp. Chất độc của cua mặt quỷ chủ yếu trong thịt, trứng và nhiều chất trong thịt càng và chân. Các độc tố này có độc cực mạnh, tương tự như chất độc trong cá nóc, ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thần kinh, ức chế hô hấp. Hiện chất độc Saxitoxin trong cua mặt quỷ vẫn chưa có thuốc giải độc. Người trúng độc nếu không được cấp cứu kịp thời, nguy cơ tử vong rất cao, cần lưu ý tránh xa loại cua nguy hiểm này.
Cua đá biển: Cua đá biển thuộc loại cua đất lớn, có vỏ màu tím sậm, chân dài và càng khá ngắn. Chúng là loại động vật ăn đêm, ban ngày trú ẩn trong các hang đào và thức ăn của nó là các loại thực vật. Khi chín, cua đá biển chuyển sang màu gạch. Cua đá biển cũng chứa các chất độc nguy hiểm như cua mặt quỷ. Đặc điểm để nhận biết chúng là vỏ đầu ngực có dạng nửa vòng tròn, dài nhất khoảng 30mm và rộng nhất khoảng 40mm, phủ kín bởi các u lồi dạng hạt.
Cua đá biển hiếm và rất khó bắt, thịt có vị ngọt thanh nên trở thành đặc sản được nhiều người ưa chuộng. Tuy nhiên trong quá trình chế biến và sử dụng, nếu không làm sạch những chất độc trong nó sẽ gây nên những tiêu cực về mặt sức khỏe và có thể để lại hậu quả đáng tiếc như trên.
Cua Florida: Đặc điểm nhận dạng của loại cua này là phần vỏ đầu ngực có dạng elip ngang. Mặt lưng của vỏ cua hơi lồi nhưng khá láng phẳng. Cua có những vệt màu xanh da trời nhạt hơi lục, pha trộn những vết loang màu đỏ tía, các ngón chân kìm màu sậm. Loại cua này thường sống ở vùng biển từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa. Tại Đà Nẵng có một trường hợp đáng tiếc xảy ra khi ăn phải loại cua Florida này. Cụ thể là sau khi luộc và ăn cua Florida, nạn nhân vô tình có những biểu hiện lạ như liên tục nôn mửa và phải đưa đi cấp cứu ngay lập tức.
Thức ăn của cuaCác loại cua độc nguy hiểm nhất hiện nay
Cua ăn thức ăn động vật phù du là chính. Cho đến hiện nay, phần lớn các hộ nuôi cua đều sử dụng các thức ăn động vật tươi sống là chính. Những thức ăn chủ yếu của cua là: cá vụn, còng, ba khía, đầu cá, don, dắt, trai, ốc, cá, tôm, còng, cáy…
Các loại thực vật gồm: rau, củ, bèo, khoai, sắn, bã đậu cám gạo v.v..
Thức ăn tươi sống: Gồm động vật vẫn còn nguyên con, còn sống hoặc đã chết nhưng thịt còn tươi. Không dùng thịt động vật đã bị ươn hôi và thịt động vật đã ướp mặn không có khả năng rửa sạch mặn. Các động vật, thịt động vật được sử dụng làm thức ăn cho cua gồm:
Cá tươi: thường sử dụng các loài cá biển như vụn cá Sơn, cá Linh, cá Chốt chuột, cá biển vụn…Các động vật nhuyễn thể: gồm các động vật nhuyễn thể như don, dắt…
Động vật giáp xác: chủ yếu là các loại tôm và cua rẻ tiền.
Động vật khác: thường là tận dụng thịt của các động vật rẻ tiền không thuộc diện dùng làm thực phẩm cho người, và thịt phế liệu của các xí nghiệp chế biến thực phẩm như cá, tôm, mực…
Cua nhện Thái Bình Dương – loài cua dài bằng xe hơiThức ăn của cua
Thế giới dưới đáy đại dương luôn bí ẩn và quyến rũ. Dù nền khoa học công nghệ đã hiện đại, tàu ngầm ngày càng lặn sâu hơn, song vẫn chưa khám phá hết được đáy đại dương. Riêng loài cua, dưới đáy biển cũng có vô số phân loài. Tuy nhiên, trong họ nhà cua, các nhà khoa học ghi nhận cua nhện Thái Bình Dương là loài lớn nhất thế giới từng được biết đến. Loài cua khổng lồ này sống ở đáy biển phía Nhật Bản, nên đôi khi nó còn được gọi là cua nhện Nhật Bản.
Vì loài cua khổng lồ, hình dạng như con nhện này sống ở đáy biển, nên các thông tin về chúng vẫn còn nhiều bí ẩn, ngoại trừ việc thịt của chúng rất béo và giàu dinh dưỡng thì giới sành ăn đều biết rõ. Các nhà khoa học đã tính toán và kết luận rằng, cua nhện sở hữu bộ chân dài nhất trong số các loài giáp xác. Trong khi các chú cua đồng chỉ có độ dài từ đầu càng này đến đầu càng kia chừng 10cm, thì một chú cua nhện trưởng thành có chiều dài hai đầu càng lên tới 4-5m, dài bằng một chiếc xe hơi 4 chỗ.
Bộ chân nguều ngoào của nó nâng đỡ cơ thể có chiều ngang chừng nửa mét và nặng tới 20kg. Con người thường gọi giới chân dài là phụ nữ, còn với cua biển thì ngược lại. Những chàng cua đực sở hữu cặp chân dài miên man, còn chân cua cái thì khá ngắn. Thậm chí, cặp càng của nó còn ngắn hơn cả chân.
Mặc dù cua nhện mang vẻ ngoài hung dữ, hầm hố, khiến người quan sát nghĩ tới những con nhện độc khổng lồ ăn thịt người trong phim ảnh, nhưng thực tế chúng là loài khá hiền lành. Chúng lợi dụng bọt biển hoặc các loại sinh vật khác để ngụy trang, trốn tránh các đối thủ hơn là tìm cách tự vệ, tấn công lại. Gặp kẻ thù, chúng chỉ biết trông chờ vào bộ mai cứng, giống loài rùa rụt cổ.
Cơ quan cảm giácCua nhện Thái Bình Dương – loài cua dài bằng xe hơi
Cơ quan cảm giác của cua rất phát triển. Cơ quan xúc giác và vị giác có dạng các tơ cảm giác tập trung ở các anten và các phần phụ. Các tơ này liên hệ với các tế bào thần kinh nằm dưới biểu mô. Cơ quan thăng bằng là bình nang, có dạng một vết lõm nằm ở đốt gốc anten I có nhiều tơ cảm giác, trong đó có chứa nhiều hạt cát nhỏ lấy vào từ bên ngoài qua mỗi lần lột xác. Ở cua có cơ quan phát thanh và nhận âm thanh ở khớp chân.
Cơ quan thị giác của cua là đôi mắt kép. Mỗi mắt kép được cấu tạo như sau:
Ngoài cùng là màng sừng trong suốt do các tế bào màng sừng tiết ra.
Bên dưới màng sừng là thể thủy tinh hình côn, bao quanh là các tế bào sắc tố.
Bên trong cùng là chùm tế bào mạng lưới cảm quang, xếp hình hoa thị theo trục dọc, bao quanh một trụ hình que dài, que do các tế bào hình mạng lưới tiết ra.
Đầu trong tế bào mạng lưới liên hệ với dây thần kinh.
Tất cả các dây này hợp thành thần kinh thị giác đi về hạch thần kinh thị giác, theo chiều dài cuống mắt.
Những loại cua ngon nhất hiện nayCơ quan cảm giác
Cua Lông Hong Kong: Cua Lông Hong Kong hay còn được biết đến với tên gọi khác là cua Lông Thượng Hải. Hằng năm, cứ vào khoảng tháng 9 – tháng 10 chính là mùa cua. So với các loài cua khác, cua Lông có kích thước nhỏ hơn rất nhiều, mỗi con chỉ nặng khoảng 150 – 200g và được bao phủ một lớp lông xù xì bên ngoài. Mặc dù có kích thước nhỏ nhưng cua Lông lại được xem là một trong những loại cua ngon nhất hiện nay và là món ăn yêu thích của giới thượng lưu. Thịt cua chắc nịch, trắng mịn, ngọt thanh tự nhiên còn phần gạch cua béo ngậy nhưng không gây ngấy. Chính vì vậy, cua lông được nhiều tín đồ hải sản gọi là “ông vua” của các loài cua.
Cua Pha Lê Úc (Cua Tuyết Úc): Cua Pha Lê Úc hay còn được gọi là cua Tuyết Úc, đây là loài cua được đánh bắt tự nhiên từ những vùng biển hoang sơ thuộc khu vực phía Tây của nước Úc. Mai cua có màu trắng, to và trong như một khối pha lê lấp lánh giữa tầng đáy của đại dương xanh. Để đánh bắt được loài cua này, ngư dân đã phải lặn thật sâu xuống dưới đáy của đại dương nên giá thành loại cua này rất đắt đỏ. Bên cạnh đó, cua Pha Lê úc cũng được nhiều người ưa chuộng bởi hương vị thơm ngon, thịt chắc, ngọt tự nhiên mà ít có loại cua nào có thể sánh được.
Cua Tasmania Úc: Cua Tasmania Úc là loài cua có xuất xứ từ vùng biển Tasmania thuộc phía Nam của nước Úc. Cua có hình dáng tương tự như các loài cua biển của Việt Nam nhưng kích thước lại to hơn gấp khoảng từ 10 cho đến 20 lần. Với những con trưởng thành có thể nặng tới 10kg. Với hương vị độc đáo, gạch thơm ngon, thịt giòn dai, ngọt thanh tự nhiên, cua Tasmania Úc được rất nhiều tín đồ hải sản yêu thích và tìm mua.
Cua Alaska: Cua Alaska là loài cua có xuất xứ từ các vùng biển Bắc Mỹ ở độ sâu từ từ 200 – 400m. Cua có kích thước lớn, mình khum tròn trông gần như con rùa hoặc con bọ khổng lồ. Phần đầu cua có nhiều lông, dài và hơi chúi xuống dưới. Cua có có hương vị đặc biệt, béo ngậy, thịt cua thơm ngon, gạch chắc. Vậy nên, dù có giá cả đắt đỏ những cua hoàng đế vẫn được rất nhiều người ưa chuộng và săn lùng.
Cua Ruby Alaska: Cua Ruby Alaska là loài cua sinh sống ở các vùng biển Bắc Mỹ thuộc bang Alaska. Cua Ruby cũng thuộc cùng họ với cua King Crab nên có ngoại hình tương đối giống nhau. Tuy nhiên, chân cua King Crab dài hơn chân cua Ruby rất nhiều. Thịt cua Ruby có màu trắng tự nhiên, vị ngọt thanh và rất giòn dai.
Cua Hoàng Đế là một trong những loại đặc sản nổi tiếng ở một số đảo xa và các vùng biển thuộc Duyên hải Nam Trung Bộ ở nước ta. Cua có kích thước lớn cùng hình dáng rất đặc biệt với bề ngoài thuôn dài và vỏ màu đỏ hồng như tôm luộc. Càng và chân cua ngắn, mai cua to và có hình dạng tương tự như chữ U với nhiều râu xung quanh. Mỗi con cua trưởng thành có thể nặng tới khoảng 1kg. Thịt cua Hoàng Đế có hương vị vượt trội hơn hẳn so với các loại cua biển khác về độ ngon, ngọt, giòn, béo. Vì vậy, loài cua này được nhiều tín đồ hải sản săn lùng để chứng tỏ độ “sành” ăn của mình.
Cua mũi tên – Loài cua có chân dài gấp 5 lần cơ thểNhững loại cua ngon nhất hiện nay
Loài cua mũi tên gây chú ý với những chiếc chân dài tới 20cm – gấp 5 lần chiều dài cơ thể của chúng. Công viên hải dương the Blue Reef ở Newquay (Anh) vừa đón chào một cư dân mới rất đặc biệt đó là một con cua mũi tên. Loài cua này có chiều dài cơ thể chỉ 4cm, nhưng những chiếc chân của chúng có chiều dài lên tới 20cm.
Những nhà khoa học đầu tiên phát hiện loài cua này đã gọi chúng là cua mũi tên bởi vì đầu của chúng có hình nhọn và mắt lồi ra ngoài trông rất giống đầu của một mũi tên.
Loài cua mũi tên thường sống trong những dải san hô ngầm cách mặt nước khoảng 10m tại vùng biển tây Đại Tây Dương, từ Mỹ kéo xuống tới Brazil và qua biển Caribbean. Thức ăn của chúng chủ yếu là xác thối của các loài sinh vật biển, tảo và phù du.
Cơ thể của chúng cũng có màu sắc rất đa dạng, bao gồm màu vàng hay kem với các đốm màu nâu, đen, hay ngũ sắc,… để thích nghi với môi trường xung quanh. Chân của chúng thường có màu đỏ hoặc vàng, trong khi càng có màu xanh dương hay tím.
Cua mũi tên cái mang trứng ở dưới bụng cho tới khi trứng nở và ấu trùng sau khi nở ra sẽ bơi cùng phù du trên mặt nước. Sau đó, những ấu trùng này sẽ trở lại các dải san hô và trải qua một loạt quá trình rụng lông trước khi trưởng thành.
Thông tin mô tảCua mũi tên – Loài cua có chân dài gấp 5 lần cơ thể
Phân thứ bộ Cua hay cua thực sự (danh pháp khoa học: Brachyura) là nhóm chứa các loài động vật giáp xác, thân rộng hơn bề dài, mai mềm, mười chân có khớp, hai chân trước tiến hóa trở thành hai càng, vỏ xương bọc ngoài thịt, phần bụng nằm bẹp dưới hoàn toàn được che bởi phần ngực. Động vật dạng cua có nhiều tại tất cả các vùng biển, đại dương. Có loài sống trong sông, suối, đồng ruộng, chẳng hạn như các loài trong họ Cua núi (Potamidae) hay họ Cua đồng (Parathelphusidae) và một số loài sống trên cạn (họ Gecarcinidae). Đầu cua và thân được nối liền nhau vào một khối có lớp mai bọc bên ngoài.
Tên gọi phổ biến của các loài trong cận bộ này bằng tiếng Việt khá đa dạng như cua, cáy, còng, đam, rạm, dã tràng, ghẹ, cà ra,… nhưng các tên gọi này dường như không phải là các nhóm đơn ngành theo quan điểm của phát sinh loài hiện đại mà chỉ đơn thuần dựa theo hình thái hoặc môi trường sống của chúng. Hiện nay, người ta ước có khoảng gần 6.800 loài.
Danh pháp “Brachyura” có nghĩa là “đuôi ngắn” (tiếng Hy Lạp: βραχύς / brachys = ngắn,[3] οὐρά / οura = đuôi), chỉ ra rằng các loài này có phần “đuôi” (thực ra là bụng) rất ngắn, nằm bên dưới và thường bị che đi bởi phần ngực.
Đăng bởi: Tính Trương Hùng
Từ khoá: 14 Sự thật thú vị nhất về loài cua
Ema Datshi, Hương Vị Cay Nồng Đến Từ Vương Quốc Hạnh Phúc
Ema datshi là món ăn truyền thống nổi tiếng của đất nước Bhutan mà bất cứ du khách nào đến đây cũng muốn được thưởng thức.
Vương quốc hạnh phúc Bhutan nằm nép mình bên dãy Himalaya, tọa lạc giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Đến tận bây giờ, nơi đây vẫn giữ được nền văn hóa Phật giáo Himalaya truyền thống còn sót lại duy nhất trên thế giới, đồng thời vẫn nắm bắt sự phát triển toàn cầu.
Không những có chỉ số hạnh phúc cao nhất thế giới, Bhutan còn được xem là một trong những địa điểm check-in lý tưởng dành cho giới xê dịch với vẻ đẹp hoang sơ, bầu trời tĩnh lặng và nền ẩm thực mang phong vị của vùng Tây Tạng, Trung Quốc, Ấn Độ. Mặc dù là vùng đất Phật giáo, những món ăn ở đây vẫn được làm chủ yếu từ các loại thịt, phô mai và điển hình là món Ema datshi.
Đến Bhutan, rẽ lối nào cũng gặp những ớt là ớt
Có nguồn gốc từ vùng Nam Mỹ, quả ớt đã du nhập vào Bhutan sau cuộc chinh phục Đế quốc Aztec của Tây Ban Nha. Tại đây, loại quả này được xem như một loại rau màu chứ không phải là gia vị và được sử dụng như một nguyên liệu chính để chế biến món ăn và Ema Datshi là ví dụ điển hình.
Đến Bhutan, rẽ lối nào cũng gặp những ớt là ớt. Ảnh: Atlas Obscura
Bởi vậy, đối với người Bhutan, ớt được xem như một sản vật quý, thậm chí, họ còn dùng ớt như một loại quà tặng gửi đến những người thân, bồi thường thiệt hại do vật nuôi trong gia đình gây ra hay dùng như “tiền tệ” để thưởng cho một người nào đó.
Ema datshi, món ăn quốc túy mang hương vị cay nồng của người Bhutan
Nói không quá, Ema datshi là món ăn truyền thống nổi tiếng của đất nước Bhutan mà bất cứ du khách nào đến đây cũng muốn được thưởng thức. Trong tiếng Bhutan, “ Ema” có nghĩa là ớt còn “ Datshi” có nghĩa là phô mai, Ema datshi là sự kết hợp hoàn hảo giữa hai nguyên liệu này, tạo nên món ăn mang phong vị rất riêng của quốc gia vùng Nam Á.
Ema datshi, món ăn quốc túy mang hương vị cay nồng của người Bhutan. Ảnh: Pinterest
Du lịch Bhutan, bạn sẽ thấy món Ema datshi có mặt trong hầu hết mọi bữa cơm của người dân địa phương. Tuy nhiên, tại mỗi vùng khác nhau, người ta sẽ sáng tạo nên những phiên bản Ema datshi khác nhau. Nơi thì cho thêm đậu xanh, khoai tây, nấm, lá dương xỉ, có nơi lại sử dụng phomat làm từ sữa bò yak, duy chỉ có vị cay nồng của ớt là không có gì khác biệt.
Với món Ema Datshi, ớt đóng vai trò trung tâm. Ảnh: hk01
Ema Datshi quả xứng đáng là quốc hồn, quốc túy của Bhutan. Bởi nó không chỉ ngon mà còn cầu kỳ trong từng khâu chế biến. Cụ thể khi chế biến sữa, chất béo sẽ được tách khỏi để làm bơ và phần sữa không chất béo sẽ được dùng để làm phô mai. Sau khi phô mai được làm ra, một phần sữa lỏng còn sót lại sẽ dùng như món súp ăn kèm với cơm. Do đó, sẽ không có một phần sữa nào bị lãng phí trong quá trình chế biến.
Ema Datshi quả xứng đáng là quốc hồn, quốc túy của Bhutan. Ảnh: healthyaddict
Mặc dù hiện nay có nhiều biến thể từ món Ema Datshi ví như Kewa Datshi (thêm khoai tây), Semchung Datshi (thêm đậu đỏ), Shamu Datshi (thêm nấm)… nhưng đặc trưng vẫn là vị cay của ớt, vị ngọt từ thịt lẫn sự béo ngậy của phô mai làm cho món ăn này lúc nào cũng trở nên quyến rũ đến lạ thường.
Có thể nói Ema Datshi luôn được xem là veddete trong mỗi bữa ăn của người dân Bhutan và là món ăn nhất định phải thử của mỗi du khách khi có dịp đến với vương quốc hạnh phúc này.
Kinh nghiệm du lịch Bhutan
Thời điểm lý tưởng
Bhutan có 4 mùa rõ rệt. Nơi đây đặc trưng với khí hậu ôn đới nên luôn tạo sự dễ chịu và thoải mái cho du khách vào các mùa trong năm. Tuy nhiên, mùa xuân (tháng 3-4) và mùa thu (tháng 9-11) được xem là 2 thời điểm đẹp nhất để bạn tận hưởng trọn vẹn cảnh quan đặc sắc cũng như trải nghiệm cùng những lễ hội thú vị.
Mùa thu (tháng 9-11) được xem là thời điểm đẹp nhất để bạn tận hưởng trọn vẹn cảnh quan đặc sắc cũng như trải nghiệm cùng những lễ hội thú vị tại Bhutan. Ảnh: Cuaderno de Viajes
Cần chuẩn bị gì trước khi đến Bhutan?
Chuẩn bị visa: Để được cấp thị thực tại Bhutan, bạn bắt buộc phải thực hiện các thủ tục xin visa thông qua công ty phụ trách du lịch của Bhutan với chi phí 40 USD/người. Do đó, bạn hoàn toàn không thể du lịch bụi đến quốc gia này. Để tránh những tác động xấu đến văn hóa và cảnh quan thiên nhiên, Quốc vương Bhutan cũng ban hàng luật giới hạn lượng khách tới đây hàng năm.
Đổi tiền: Bhutan sử dụng đồng tiền chính là Ngultrum (Nu). Việc đổi tiền ngay tại sân bay sẽ dễ dàng và rẻ hơn với du khách. Bạn nên đổi vừa đủ số tiền mình cần sử dụng. Trong trường hợp không sử dụng hết tại Bhutan, đừng quên đổi tiền ở sân bay trước khi về nước.
Mua sim điện thoại: Việc mua sim card tại Bhutan không quá khó khăn như nhiều người vẫn nghĩ. Bạn có thể dễ dàng tìm thấy chúng ở sân bay với mức giá từ 300-700 Nu (khoảng 100.000-230.000 đồng) tuỳ vào dung lượng sử dụng.
Một vài lưu ý khác: Bhutan là cái nôi của Phật giáo nên ở đây có khá nhiều địa điểm linh thiêng. Tại những nơi nhạy cảm như cung điện hoàng gia, chùa chiền, bạn nên mặc trang phục lịch sự và tuyệt đối không được chụp ảnh. Đặc biệt, du khách không được phép hút thuốc bởi hành vi này có thể khiến bạn bị cảnh sát bắt giam.
Đăng bởi: Diệu Quỳnh Mai Lan
Từ khoá: Ema datshi, hương vị cay nồng đến từ vương quốc hạnh phúc
Cập nhật thông tin chi tiết về Rau Diếp: Vị Thuốc Đặc Biệt Đến Từ Loài Cây Thân Thuộc trên website Xcil.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!